Bản tin 23h của VTV1 về Lễ khai trương Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên (từ phút thứ 10:43)
Email: museum(at)nguyenvanhuyen.org.vn
W: www.nguyenvanhuyen.org.vn
| 
             | 
        
|   | 
| Bộ trưởng Phạm Vũ Luận trao tặng tư liệu cho con, cháu GS Nguyễn Văn Huyên | 
| 10/11/2014 | |
Hai anh em TS Nguyễn Văn Huyên,  
Nguyễn Văn Hưởng thờ trẻ du học tại Pháp 
1. TS.
 Nguyễn Văn Huy bảo ông không có ý định làm lễ khai trương bảo tàng. Ý 
tưởng thành lập một bảo tàng riêng về gia đình, nhất là mong muốn giúp 
cho thế hệ con cháu sau này hiểu về cha mẹ của ông, đã được ấp ủ từ lâu 
lắm rồi, nay mới trở thành hiện thực. Những người khách đầu tiên đến 
thăm bảo tàng chính là những người trong họ tộc, bạn bè, con cháu trong 
đại gia đình.   
Có lẽ cái "chất” của một nhà nghiên 
cứu về văn hóa dân tộc, những trăn trở về bản sắc Việt đã ngấm sâu và 
được truyền từ người cha Nguyễn Văn Huyên sang người con trai duy nhất 
Nguyễn Văn Huy trong gia đình. Tới Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên, nghe những
 người con kể câu chuyện về cuộc đời cha mẹ mình, ta sẽ hiểu thêm rằng 
tại sao TS Nguyễn Văn Huy- nguyên giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
 đã thành công đến thế khi tạo dựng được thương hiệu Bảo tàng Dân tộc 
học Việt Nam ở cả trong và ngoài nước. 
Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên là một câu 
chuyện lớn về cuộc đời cụ và vợ - cụ bà Vi Kim Ngọc do con cái kể theo 
dòng trình tự thời gian. Kết cấu trưng bày tại đây vừa dung dị, gần gũi 
nhưng cũng thật đặc biệt. Tầng 1: Giới thiệu nền tảng của gia đình, dòng
 họ;  tầng 2: trưng bày Tuổi trẻ của bố mẹ; tầng 3 là câu chuyện: Bố 
chúng tôi, một nhà bác học; tầng 4: Bố chúng tôi, một người hành động. 
Ngoài ra, còn có tầng thượng mà khi đứng đó, sẽ cho cái nhìn toàn cảnh 
không gian làng quê Lai Xá… 
Người  xem sẽ gặp ở đây nhiều tư liệu,
 hình ảnh, hiện vật, hồi ký… mà gia đình kỳ công lưu giữ của nhiều nhân 
chứng về cuộc đời và sự nghiệp giáo dục của cố Bộ trưởng Nguyễn Văn 
Huyên. Nhiều người đã biết, cụ là Bộ trưởng Giáo dục gần 30 năm, từ năm 
1946 – 1975, xuyên suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
 Mấy chục năm liền, vị bộ trưởng ấy đã đóng góp không ngừng nghỉ để lãnh
 đạo tổ chức nền giáo dục mới trên nền tảng của tinh thần dân tộc, khoa 
học và đại chúng. Nhưng từ những câu chuyện kể ở bảo tàng này, người xem
 có cơ hội tìm hiểu về những đóng góp của cụ trong quá trình gìn giữ bản
 sắc văn hóa của người Việt. 
2. Câu
 chuyện hôn nhân của TS Nguyễn Văn Huyên với vợ-  cụ Vi Kim Ngọc cũng 
gợi nhắc cho người xem sự chuyển mình đáng nhớ của một xã hội những năm 
đầu thế kỷ XX. Trong phần trưng bày về Tuổi trẻ của bố mẹ có đoạn giới 
thiệu: Bố mẹ cưới nhau năm 1936-  một đám cưới của tầng lớp thượng lưu. 
Thời bấy giờ hôn nhân dựa trên tình yêu chưa phổ biến. Để có được tình 
yêu của mình, mẹ- một thiếu nữ 16 tuổi đã dám đấu tranh với cha mình để 
hủy hôn ước mà bố mẹ đã hứa với một gia đình "môn đăng hộ đối” khi bà 
mới tròn 13 tuổi. Rồi mẹ gặp bố qua sự giới thiệu của một người bạn cũng
 là một trí thức Tây học.  
Ngày ấy, cưới xin là một sự kiện xã 
hội. Câu chuyện từ chối hôn nhân do gia đình sắp đặt của cụ bà Vi Kim 
Ngọc minh chứng cho một xã hội đang vận động vào những năm 30 của thế kỷ
 XX, khi các "làn gió mới” phương Tây đã thấm vào Việt Nam, nhất là 
trong lĩnh vực hôn nhân. Vì thế, hôn nhân của 2 cụ ghi dấu một sự chuyển
 đổi quan trọng của xã hội, từ quan niệm "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” –
 sang tự do yêu đương.  
Sự chuyển dịch quan niệm về vấn đề hôn
 nhân và gia đình thời bấy giờ cũng được chỉ ra cho người xem thấy rõ. 
Rằng ở thời kỳ trước đó, nếu như  đàn ông là phải "năm thê bảy thiếp” 
thì tới thời kỳ của TS Nguyễn Văn Huyên những quan niệm này đã bị gỡ 
bỏ.  
3. Theo
 TS Nguyễn Văn Huy, việc hoàn thiện Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên vào năm 
2014 rất có ý nghĩa với gia đình. Bởi năm nay cũng là cái mốc đánh dấu 
tròn 80 năm cụ bước chân vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học (1934- 2014). 
Hơn thế, những ngày này, cả nước đang hướng tới kỷ niệm Ngày nhà giáo 
Việt Nam, với các con cháu trong gia đình, dòng họ, cụ Nguyễn Văn Huyên 
không chỉ là một người cha, người ông mà còn là một người thầy vĩ đại, 
một tấm gương để hậu thế tự hào. Gửi gắm tất cả tâm huyết vào Bảo tàng 
Nguyễn Văn Huyên, vợ chồng TS Nguyễn Văn Huy và các anh chị em, con cháu
 mong muốn gửi tới cụ lời tri ân sâu sắc nhất. 
  | 
| Gia đình cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên. | 
| Ông Nguyễn Văn Huyên và bà Vi Kim Ngọc, năm 1935. | 
| (30/03/2014) | 
| 
   
       
Nói về Giáo sư, cố Bộ trưởng Nguyễn Văn 
Huyên, PGS.TS Nguyễn Văn Huy bảo rằng bài học lớn nhất ông nhận được từ 
người cha và đã thực hiện trong cuộc đời làm khoa học của mình là trí 
thức phải gắn với thực tiễn, không phải là làm khoa học trên sách vở. 
 | 
  
Dù mái đầu đã bạc trắng, PGS. Nguyễn Văn Huy 
vẫn "trên từng cây số” đến với bà con 
Khi chúng tôi đặt vấn đề với PGS. Nguyễn Văn Huy về
 câu chuyện của trí thức thời đại ngày nay, ông nói ngay không chần chừ:
 "Người trí thức ở thời kỳ nào, nếu muốn có đóng góp đều phải bám vào 
thực tiễn một cách sâu sắc với mục tiêu rất rõ ràng. Thực tiễn giúp cho 
người trí thức bay cao, bay xa, có những phát hiện và làm được việc có 
ích cho xã hội. Cũng chỉ có thực tiễn mới giúp cho người trí thức có 
những đóng góp tốt nhất, tình cảm tốt nhất đối với con người, xã hội 
đương thời. Tình cảm đó chính là tình yêu quê hương đất nước”. 
"Bộ trưởng ngồi xổm dự giờ” 
GS. Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục lâu 
nhất của Việt Nam là một minh chứng điển hình của người trí thức bám sát
 thực tiễn. Trong gần 30 năm làm Bộ trưởng, dù là trải qua 2 cuộc kháng 
chiến gian khổ và ác liệt nhất, GS. Nguyễn Văn Huyên luôn đều đặn đến 
các Sở, Ty giáo dục không chỉ ở đồng bằng mà còn lên miền núi, xuống tận
 các trường học dự giờ giảng của các thầy cô giáo… Ông là vị bộ trưởng 
đầu tiên lên vùng Bảo Lạc (Cao Bằng) những năm 60. 
Một câu chuyện thú vị về tiết dự giờ của GS. Nguyễn
 Văn Huyên diễn ra tại trường Mẫu giáo-Vỡ lòng xã Phù Đổng, huyện Gia 
Lâm (Hà Nội) (nay là trường Mầm non) vào cuối những năm 60 mà các thầy 
cô giáo ở đây luôn nhắc đến. Ông trực tiếp xuống thẳng lớp học để dự 
giờ, cô giáo và học sinh, ngay cả ban giám hiệu nhà trường cũng không 
được báo trước. Cô cứ dạy, trò cứ học, còn Bộ trưởng (mãi sau này cả lớp
 mới biết) và 3,4 cán bộ đi cùng ngồi xổm ngay ở  cửa ra vào của lớp học
 để theo dõi tiết học…   
"Nhìn lại cuộc đời cha tôi, tôi cho rằng những gì 
cụ làm được đều bắt nguồn từ việc nắm được bài học thực tiễn. Trí thức 
thời xưa cần và họ đã bám sát thực tiễn như thế nào thì với trí thức 
ngày nay, vai trò của thực tiễn cũng quan trọng như thế”, PGS. Nguyễn 
Văn Huy bày tỏ.  
Là một nhà dân tộc học, PGS. Nguyễn Văn Huy cũng 
giống như cha mình chưa bao giờ là một nhà "dân tộc học ghế bành” (Một 
thuật ngữ chỉ những người không đi điền dã, chỉ ngồi nhà đọc tài liệu). 
Ông luôn đề cao vấn đề đi điền dã để hiểu và nắm bắt thực tiễn. Không 
chỉ trong những năm tháng tuổi trẻ sôi nổi, mà giờ đây khi mái đầu đã 
bạc trắng bạn bè vẫn thấy ông "trên từng cây số” khi thì trên một bản 
vùng cao, lúc thì ở một vùng biên cương của Tổ quốc…  
"Con đường Hạnh phúc năm 1972 tôi đi thì từ năm 
1964, 1965, cha tôi đã đặt chân đến. Ngày ấy, đi ô tô từ thị xã Hà Giang
 tới Đồng Văn, Mèo Vạc cũng phải mất 3 ngày. Rồi lại ba lô đi bộ đến các
 bản làng xa xôi. Chúng tôi đã ăn cùng, ở cùng với bà con dân bản hàng 
tháng trời. Trong ba lô của chúng tôi luôn mang theo từ võng đến gạo, 
đến lương khô. Khí hậu khắc nghiệt, lạnh buốt, bệnh sốt rét,… Tất cả 
những khó khăn ấy khó mà kể hết. Nhưng điều quan trọng và hạnh phúc ở 
mỗi chuyến đi ấy đã giúp tôi tiếp cận với cuộc sống, giúp nhận biết, 
phát hiện được những tri thức, kinh nghiệm mà người dân đã tích lũy từ 
bao đời rất cần cho lĩnh vực nghiên cứu của mình. Mỗi chuyến đi thực tế 
ấy giúp xây dựng tình cảm với những con người mình tiếp xúc và lớn hơn 
là tình yêu đất nước”, PGS. Nguyễn Văn Huy nhớ lại.  
Đi… với sự nung nấu 
PGS. Nguyễn Văn Huy đã từng đến nhiều bảo tàng nước
 ngoài ở Pháp, Hà Lan, Đức, Mỹ, Nhật Bản… Với tâm niệm mỗi chuyến đi 
chính là cơ hội để nạp năng lượng, tri thức nên ông  đã tranh thủ đến 
mức tối đa. Hàng ngàn bức ảnh, các ghi chép bằng giấy bút, các băng ghi 
âm… được ông lưu giữ cẩn thận từ những năm 1990 đến nay là những tư liệu
 vô giá có thể sử dụng mãi không những giúp cho công việc của mình mà 
còn để truyền lại cho đồng nghiệp, cho thế hệ trẻ. 
Hành trang ông mang theo trong mỗi chuyến công tác 
không thể thiếu máy ảnh, sau này là máy quay phim nhỏ, rồi máy ghi âm. 
Riêng những cuốn sổ và chiếc bút khi xưa nay đã được thay thế bằng chiếc
 ipad. Ông bảo, công cụ này giúp mình làm nhanh, tiện lắm nhưng tinh 
thần thì thời nào cũng thế. Phải luôn đặt câu hỏi đi để làm gì. Phải 
mang lại cái gì đó cho xã hội, cho ngành của mình, cho đơn vị mình. 
Nghĩa là phải có sự nung nấu về mục tiêu. Nếu không, những chuyến đi sẽ 
trở nên lãng phí mà tính hiệu quả lại ít.  
"Mỗi người đều có đôi mắt và một cái đầu. Vấn đề là
 mối quan tâm của mình như thế nào. Mỗi chuyến đi thực tế có thể thu 
lượm được những tri thức hữu ích tuy chưa sử dụng ngay. Nhưng với thời 
gian tất cả những kinh nghiệm đó tích tụ dần lại, giúp chúng ta giải 
quyết vấn đề cuộc sống đặt ra”, PGS. Nguyễn Văn Huy chia sẻ. "Tiếc là 
bây giờ, khi việc đi lại trở nên dễ dàng hơn trước nhiều thì những 
chuyến đi của các bạn trẻ lại có phần bàng bạc. Kể cả nhiều nhà dân tộc 
học, nhà nhân học cùng lắm cũng chỉ điền dã trong vòng 1 tuần. Ít khi 
người ta ngủ trong bản, ở với dân mà chủ yếu làm việc với chính quyền…  
Đó là một thiệt thòi, vì ít ai hiểu buổi tối cuộc sống ở đó diễn ra thế 
nào, những băn khoăn, trăn trở của họ ra sao. Nên nhiều nghiên cứu của 
chúng ta vẫn chỉ "chuồn chuồn đạp nước”, thiếu sự sâu lắng và tình cảm 
cũng hời hợt”.  
"Nhà nước chúng ta bỏ ra rất nhiều tiền cho các 
đoàn đi nghiên cứu, khảo sát nhưng kết quả của không ít các chuyến đi 
đó, tôi biết hầu như không đáng bao nhiêu. Ngay trong lĩnh vực bảo tàng,
 người ta tổ chức những chuyến đi ra nước ngoài. Họ đến thăm 1 bảo tàng 
nhưng có người lại không muốn vào trong bảo tàng, chỉ ngồi ngoài chờ đi 
siêu thị? Cũng có người làm chuyên môn họ quan tâm nhưng rồi người ta có
 đưa được các kinh nghiệm học được ở bên ngoài về đến đơn vị hay không, 
có áp dụng được hay không lại là vấn đề khác…”, PGS. Nguyễn Văn Huy trăn
 trở.  
Lam Nhi 
 | 
| Tháng 6-1955: ông Nguyễn Văn Huyên (hàng đầu, bên trái) trong đoàn đại biểu Chính phủ VN dự một cuộc tiếp tân tại Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi hàng ghế phía sau - Ảnh tư liệu |