TP - Đã nghỉ hưu nhiều năm nay nhưng PGS.TS Nguyễn Văn
Huy chưa lúc nào thôi bận bịu. Sau câu chuyện về Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam đầy hấp dẫn ông lại tiếp tục ấp ủ và thai nghén những câu
chuyện mới mà nhiệt huyết, sự say mê, sức lan toả không kém tác phẩm đầu
tay.
Bài học từ những ô cửa sổ
Chẳng phải nghi ngờ khi xếp Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam là một trong những địa chỉ thú vị cần khám phá khi du khách đặt chân
đến thủ đô. (Hiện nay Bảo tàng này cũng là một trong những địa điểm đắt
khách hàng đầu về chụp hình cưới của những bạn trẻ).
Sức sống và sự hấp dẫn ấy có công không nhỏ của PGS.TS
Nguyễn Văn Huy, vị giám đốc thành lập của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Ông nhớ lại: “Bước ban đầu xây dựng Bảo tàng khó khăn vô vàn. Bắt đầu
từ số không: Không nhà, không cửa, không người, không hiện vật… Đầu tiên
nó chỉ là phòng bảo tàng của Viện Dân tộc học”.
Chỉ riêng câu chuyện xin đất (diện tích 4,2 héc ta) và
tìm kinh phí xây dựng đã là một bài toán khó mà Nguyễn Văn Huy và đồng
nghiệp tốn không ít thời gian, sức lực mới tìm ra lời giải.
Vốn làm khoa học xã hội nên Nguyễn Văn Huy không khỏi
bỡ ngỡ khi nhận “vai” trưởng ban quản lý công trình xây dựng bảo tàng:
“Nhiều khi cầm bản vẽ tôi không đọc ra được. Đến khi họ lập giàn giáo
chuẩn bị xây dựng, tôi mới mường tượng ra hình hài và cảm thấy không
ổn. Ngay lúc đó phải có quyết tâm điều chỉnh sao cho phù hợp”.
“Giới
bảo tàng của ta trì trệ nhiều năm nhưng nếu có tác nhân tốt, tầm nhìn
tốt, định hướng tốt có thể vươn lên chứ không phải lình xình, lì xì như
hiện nay”.
Phó giáo sư Nguyễn Văn Huy
|
Chính sự lạ lẫm ấy đã khiến họ cho ra đời tác phẩm bộc
lộ nhiều hạn chế: “ Có lẽ người được giao vẽ bảo tàng cũng chưa bao giờ
vẽ bảo tàng, chỉ biết vẽ toà nhà để ở hay trụ sở làm việc của cơ quan,
thế thôi.
Khi bắt đầu xây dựng mới lộ rõ khiếm khuyết, chúng
tôi phải tranh thủ tối đa chuyên gia bảo tàng ở nước ngoài, nhất là
những chuyên gia của Mỹ, của Pháp, Nhật, Hà Lan… Họ đã giúp tạo ra bộ
mặt của Bảo tàng Dân tộc học hôm nay”.
Một bài học đáng nhớ của ông trong quá trình làm tổng
chỉ huy công trình xây dựng bảo tàng chính là việc khép cửa sổ. Vì chưa
có kinh nghiệm nên các nhà thiết kế của ta tạo ra một bảo tàng với nhiều
cửa sổ (ông nhớ hình như có tới 20, 30 cửa sổ, ngay cả kho bảo quản
hiện vật cũng có nhiều cửa sổ).
Trong khi nguyên tắc làm bảo tàng về cơ bản trong phòng
trưng bày không nên tạo cửa sổ; còn kho bảo quản thì tuyệt đối không có
cửa sổ. Ý kiến tư vấn của các chuyên gia trong nước và quốc tế cũng
không đồng nhất, ông đau đầu để đưa ra quyết định cuối cùng .
Sau rất nhiều năm nhìn lại ông vẫn thấy các phán quyết
trong thời điểm “nước sôi lửa bỏng” đều chính xác: “Không cái nào sai
lầm về kiến thức và nhận thức”. Nhất là với quyết định đóng các cửa sổ ở
bảo tàng: “Chúng tôi đã đóng tất cả các cửa sổ trong bảo tàng và chỉ
tạo cho bảo tàng duy nhất một lối đi. Lộ trình đi vào, đi ra, đi thăm
chỉ có duy nhất một cửa, trước kia mở tới 8, 9 cửa khác nhau.
Tư tưởng của người thiết kế là muốn tạo thành dải quạt
để khách tham quan có thể vừa đi thăm trưng bày trong nhà, vừa đi ra
ngoài vườn, vừa có thể trở lại phòng trưng bày bằng bất cứ lối nào, dễ
dàng, thuận tiện nhất. Nhưng điều đó là sai lầm”.
Ông thấm thía: “Đó là bài học rất quí với tôi, tôi đã
truyền thụ bài học đó suốt 15 năm nay”. Tuy nhiên, không phải ở nơi đâu
bài học của ông cũng được hồ hởi tiếp thu: “Đa phần người ta không hiểu
và không thực hiện. Ngay cả bây giờ nhiều bảo tàng mới khánh thành đều
mắc sai lầm là mở quá nhiều cửa, ánh sáng tự nhiên quá nhiều trong phòng
trưng bày”.
Ông lý giải: “Mở nhiều cửa sổ sẽ tốn diện tích trưng
bày, đồng thời cũng tạo ra nhiều ánh sáng tự nhiên sẽ làm hỏng hiện vật.
Với bảo tàng hiện đại, phải cân nhắc dùng ánh sáng tự nhiên hay nhân
tạo, dùng đèn neon hay đèn chiếu rọi. Chúng tôi đã quyết định sử dụng
ánh sáng nhân tạo kết hợp từng phần một hạn chế với ánh sáng tự nhiên.
Chúng tôi sử dụng ánh sáng rọi ngay từ khi khai trương bảo tàng”.
Người Việt Nam vốn thích ngắm nghía hiện vật trong ánh
sáng nhân tạo nhưng Nguyễn Văn Huy lại buộc họ làm điều ngược lại: Không
gian trưng bày thường tối để tôn vinh hiện vật trong khoảng sáng tập
trung, chẳng hạn người ta ngắm bức tranh với ánh sáng chỉ rọi vào một
điểm cần nhấn mạnh. Riêng chuyện này đã thấy sự quyết liệt của giáo sư
và các cộng sự: Định hình “gu” thưởng thức cho khán giả, nâng tầm người
xem, không chiều theo thị hiếu.
Ngay cả những lời giới thiệu ở Bảo tàng Dân tộc học
cũng được người đứng đầu quan tâm, chăm chút kỹ càng. Thay vì lối dùng
người thuyết minh, Bảo tàng tạo ra thói quen tự khám phá cho khách tham
quan bằng cách đọc. Tại đây lời giới thiệu ngoài bản tiếng mẹ đẻ, còn
có bản tiếng Anh, tiếng Pháp - những bản dịch hoàn hảo có sự góp sức
của những nhà khoa học, những chuyên gia uy tín người bản ngữ.
Tham gia công việc của Bảo tàng Dân tộc học từ năm
1981, khi đang giữ chức Phó Viện trưởng Viện Dân tộc học, năm 1995
Nguyễn Văn Huy được bổ nhiệm làm Giám đốc Bảo tàng. Suốt từ năm 1981 cho
đến khi về hưu ông đã dành toàn bộ thời gian và sức lực cho bảo tàng.
Ngay cả khi về hưu câu chuyện ấy vẫn chưa kết thúc.
Chưa có một ngày nghỉ
Để có cuộc gặp với ông tôi đã hẹn trước nửa tháng. Ông
vẫn bận như khi còn đương chức. “Về hưu nhưng tôi chưa có một ngày
nghỉ”, ông cười. “Người hùng” của giới bảo tàng có niềm tin: “Giới bảo
tàng của ta trì trệ nhiều năm nhưng nếu có tác nhân tốt, tầm nhìn tốt,
định hướng tốt có thể vươn lên chứ không phải lình xình, lì xì như hiện
nay”.
Ông kể cho tôi ba câu chuyện ông đã và đang viết từ
ngày về hưu. Câu chuyện đầu tiên liên quan đến Bảo tàng Phụ nữ: “Nằm
ngay phố Lý Thường Kiệt, gần trung tâm thủ đô mà Bảo tàng vẫn hiu hắt,
buồn tẻ. Đầu năm 2008, bắt đầu nghỉ hưu, tôi đến đây đặt vấn đề: Có cần
đổi mới không, tôi đang rỗi”. Đúng lúc này lãnh đạo và cán bộ Bảo tàng
Phụ nữ cũng đang trăn trở câu chuyện lối đi của đổi mới.
Nguyễn Văn Huy đã góp phần thay đổi chiến lược của Bảo
tàng Phụ Nữ, từ phục vụ tuyên truyền đơn thuần, nâng tầm thành một bảo
tàng nhân học, nói về giới.
Cùng với những người bạn ở Trung tâm Hỗ trợ và Phát
triển Văn hoá và Nghệ thuật (A&C), Nguyễn Văn Huy bắt đầu công cuộc
phù phép biến bảo tàng ngủ quên thức dậy. Ông và những người bạn đã giúp
Bảo tàng xin tài trợ, tổ chức tập huấn, mời chuyên gia nước ngoài đến
tổ chức lại hệ thống trưng bày trong vòng hơn hai năm.
Năm 2010, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đã khai trương mới,
thay đổi hoàn toàn về chất: “Bảo tàng Phụ nữ là một thành quả tôi gặt
hái khi về hưu, tôi tự hào về câu chuyện ấy”.
Câu chuyện thứ hai của ông liên quan tới Bảo tàng Mỹ
Thuật. Ông thấy hiện vật tại Bảo tàng Mỹ thuật rất phong phú nhưng lại
chưa lôi kéo khách tham quan. Với vai trò là Phó Giám đốc Trung tâm
Nghiên cứu và Phát huy các giá trị văn hoá (CCH), Nguyễn Văn Huy cùng
với các cộng sự đã giúp xây dựng thành công phòng khám phá cho trẻ em
tại Bảo tàng Mỹ Thuật. Một khi lôi kéo được “thượng đế” nhí tới Bảo tàng
thì rất có tiềm năng sẽ chinh phục được nhiều đối tượng khách tham quan
khác, trước hết là cha mẹ và gia đình của các em nhỏ.
Hiện nay Phó Giáo sư Huy đang dồn tâm sức viết câu
chuyện thứ ba: “Tôi muốn gắn bó bảo tàng, cả di sản văn hoá nữa, với nhà
trường. Lâu nay nhà trường đưa học sinh đến thăm di tích hoặc thăm bảo
tàng cơ ban chỉ để có cảm quan thôi, không có mục tiêu để học sinh học
tập. Tôi muốn những người làm giáo dục phải thay đổi tư duy, câu chuyện
này vô cùng khó khăn…”.
Ông cùng đồng nghiệp ở Trung tâm CCH, Văn phòng UNESCO
tại Hà Nội đã tổ chức một số thử nghiệm ở Hà Nội, Đắc Nông, Thái Nguyên
và đã thu được kết quả. Kết quả đó đã góp phần thúc đẩy sự ra đời của
bản Hướng dẫn sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông,
trung tâm giáo dục thường xuyên vừa được Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo và
Bộ VHTT & DL ban hành vào tháng 1 vừa qua.
Còn một câu chuyện thuộc về riêng tư cũng đang chiếm
không ít thời gian của phó giáo sư Nguyễn Văn Huy: “Tôi muốn làm một
trưng bày kể câu chuyện về cuộc đời, nhất là cuộc sống đời thường của bố
mẹ mình ở quê hương Lai Xá.
Tôi muốn qua câu chuyện cụ thể này để nói về những
thay đổi của xã hội Việt Nam trong khoảng 80 năm của thế kỷ 20. Hiện tại
tôi đang hình thành ý tưởng cho nội dung trưng bày và tuyển chọn các tư
liệu, ảnh, hiện vật cho trưng bày”.
Cha ông chính là GS.Nguyễn Văn Huyên, cố Bộ trưởng Bộ
Giáo dục. Cái tên Nguyễn Văn Huyên cũng được đặt cho con đường chạy
ngang qua Bảo tàng Dân tộc học, nơi con trai út Nguyễn Văn Huy đã đặt
viên gạch đầu tiên cho sự ra đời của một Bảo tàng đầy sức sống.
Giới trẻ học tôi và tôi cũng học họ
Trên bàn làm việc của giáo sư Nguyễn Văn
Huy có cuốn sách của một tác giả từng gây sốt với giới trẻ, Huyền Chíp:
“Tôi rất hay đi và khám phá nên muốn xem thế hệ trẻ đi và khám phá thế
nào. Mỗi người, mỗi thế hệ đều có cách làm riêng, kiểu du lịch ba lô của
người trẻ thật dũng cảm và xông pha”.
Ở tuổi này, ông vẫn vi vu, lúc vì công
việc, lúc vì thoả mãn sở thích khám phá. Ông cũng là người thích đi bộ.
Mỗi ngày ông đi bộ chừng sáu cây số để rèn luyện sức khoẻ. Phó giáo sư
tiết lộ: “Để rèn luyện trí tuệ tôi chọn đọc sách, giao lưu với người
trẻ.
Các đồng nghiệp trẻ học tôi rất nhiều nhưng
tôi cũng học họ rất nhiều, nhờ họ tôi cập nhật được những vấn đề nóng
mà giới bảo tàng quan tâm. Tôi cũng quan hệ tốt với đồng nghiệp quốc tế,
họ giúp cho đầu óc mình luôn phải mở”. Ông cũng cho biết, đã lâu không
dùng đến bút, ipad trở thành vật bất li thân của ông trong công việc.
|
Nông Hồng Diệu
http://www.tienphong.vn/van-nghe/613012/Nguoi-hung-cua-gioi-bao-tang-tpp.html
http://www.tienphong.vn/van-nghe/613012/Nguoi-hung-cua-gioi-bao-tang-tpp.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét