Thứ Tư, 11 tháng 12, 2019

Cách ông Phạm Văn Nên bảo quản ảnh trong các album

Nhóm khảo sát cách lưu giữ ảnh tại cộng đồng: ông Phạm Văn Nên bảo quản ảnh trong các album. Một vài album đã có dấu hiệu bị hỏng (vàng ố, đổi mầu), làm cho không khí lọt vào ảnh. Trong trường hợp này nên sớm thay album khác nếu không ảnh sẽ bị mốc, bà Barbara tư vấn cho ông Nên.



Các chuyên gia Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ khảo sát tình trạng và kinh nghiệm bảo quản ảnh tại cộng đồng

Các chuyên gia Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ khảo sát tình trạng và kinh nghiệm bảo quản ảnh tại cộng đồng: tại gia đình ông Đinh Xuân Dũng, Lai Xá. Bố ông Dũng là chủ một hiệu ảnh xưa ở Hà Nội. Ông là gia đình liệt sĩ, thờ chú và anh trai tại nhà thờ họ.
Gia đinh không có album ảnh riêng mà chỉ lưu những ảnh rời được gói kín trong các gói bằng giấy báo. Ảnh cũ nét đẹp, đen trắng nhưng đã bị mốc và rách nhiều. Một số ảnh đã được họ hàng mang đi Mỹ. Ông Dũng đã scan một số ảnh, làm photoshop và lưu trong máy tính.
#baoquananhtaicongdong
#kyuclaixa

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2019

Những người bạn ghé thăm

GS. Nguyễn Xuân Kính, Viện Nghiên cứu Văn Hóa, và phu nhân TS. Chu Tuyết Lan, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, và TS. Trần Thị Phương Hoa, Viện Sử học, dành gần 3 tiếng rưỡi chăm chú thăm Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên.





Thứ Hai, 28 tháng 10, 2019

50 năm thành lập trường THPT Nguyễn Văn Huyên, Tuyên Quang

Đại diện gia đình Cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên chúc mừng 50 năm thành lập trường THPT Nguyễn Văn Huyên, Tuyên Quang.



Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2019

Thông báo - Announcement

Bảo tàng chúng tôi xin thông báo: Hiện nay thôn Lai Xá đang tổ chức làm lại đường và đã đến phần ngõ của Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên. Vì vậy, Bảo tàng sẽ đóng cửa từ 09/3/2019 đến hết ngày 19/4/2019. Chúng tôi rất mong quý khách thông cảm, vì việc làm đường này sẽ góp phần làm đẹp hơn cho chuyến tham quan của quý khách.



Due to road construction in Lai Xa village, the Nguyen Van Huyen Museum will be closed from March 9 to April 19, 2019. We apologize for your inconvenience and look forward to welcoming you with a new road soon.

Nghệ thuật ảnh tô màu nước

Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên đang chuẩn bị một cuộc triển lãm về nghệ thuật ảnh tô mầu nước.
Ảnh tô mầu đặc biệt phát triển ở nước ta từ những thập niên cuối của nửa đầu thế kỷ 20. Khi chụp ảnh mầu xuất hiện và phát triển, nghề làm ảnh tô mầu nước bị thu hẹp và mất dần. Nay không còn nữa.


Bức ảnh đen trắng này vừa được tô mầu.
Chúng ta nghĩ gì về nghệ thuật tô mầu nước này? Nó còn có giá trị gì trong đời sống đương đại?
Hy vọng triển lãm tới sẽ giúp giải đáp câu hỏi trên.

Lễ tế Nam Giao - Kỷ niệm đặc biệt của gia đình năm 1936

Kỷ niệm đặc biệt của gia đình năm 1936.
Năm 1936 bà Vi Kim Ngọc theo bố vào Huế dự lễ Nam Giao. Ông Nguyễn Văn Huyên cùng anh rể Phan Kế Toại cũng có mặt tại lễ này.
Chính dịp này ông Toại thay mặt gia đình trao thư cầu hôn của chàng trai Nguyễn Văn Huyên với tiểu thư Vi Kim Ngọc. Trong nhật ký của mình bà Vi Kim Ngọc viết: chính trên xe hơi, ông Vi Văn Định đã thông báo với bà tin này và đưa bà xem thư cầu hôn.
Chắc hẳn sự kiện cầu hôn này không phải ngẫu nhiên mà được sắp đặt trước một cách thú vị đầy ý nghĩa. Nhà gái, nhà trai cùng từ Hà Nội vào Huế dự nghi lễ quốc gia tế trời đất và là cơ hội đẹp để kiến tạo một gia đình tương lai. Mấy tháng sau đôi trai tài gái sắc này tổ chức lễ thành hôn.
Năm 1939 ông Nguyễn Văn Huyên cùng ông Trần Văn Giáp đã viết và công bố chung bài về những bài hát trong lễ Nam Giao hẳn là có ngụ ý kỷ niệm sự kiện có ý nghĩa ngày.
Cảm ơn Trung tâm lưu trữ 3 đã lưu giữ tờ
Chương trình Lễ Nam Giao năm 1936. Nếu TT công bố toàn bộ tờ Chương trình này thì thật thú vị.

=======================================================================

Đàn và Lễ tế Nam Giao là một nét văn hóa cung đình độc đáo và đặc sắc dưới triều Nguyễn, chứa dựng giá trị lịch sử, văn hóa cùng giá trị nhân văn độc đáo.

     Đàn Nam Giao triều Nguyễn (thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế) là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm. Đây là đàn tế duy nhất còn hiện hữu khá nguyên vẹn ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất còn tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế. Kiến trúc độc đáo của Đàn tế và nghi thức của Lễ tế Nam Giao triều Nguyễn được ghi chép trong rất nhiều tài liệu Mộc bản Triều Nguyễn.
     Các triều đại quân chủ Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của hệ tư tưởng Nho giáo, nhà vua được xem là Thiên tử, tuân theo mệnh trời để trị vì dân chúng. Chính vì vậy, việc làm lễ Tế Nam Giao (tế trời đất) luôn được các triều đại phong kiến coi trọng. Dưới triều Nguyễn, lễ tế Nam Giao là nghi lễ quan trọng hàng đầu, được xếp vào hàng Đại tự, được tổ chức long trọng dịp đầu xuân.
 
Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí khắc về Đàn tế Nam Giao.          

     Đàn tế Nam Giao Triều Nguyễn được xây dựng dưới triều vua Gia Long, hoàn tất năm 1807. Đàn Nam Giao triều Nguyễn là một tổ hợp các công trình kiến trúc độc đáo gồm Giao đàn, Trai cung, Thần trù và Thần khố. Trong khuôn viên hình chữ nhật 390m x 260m, khu Đàn tế được bao phủ bởi rừng thông xanh mướt, bốn mặt khuôn viên đều trổ cửa theo bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc trong đó cửa Nam là cửa chính, trước mỗi cửa đều xây bình phong bằng đá. Đàn Nam Giao gồm 3 tầng bằng gạch xây chồng lên nhau, cấu tạo và kích thước của các tầng rất hài hòa và cân đối với các dạng thức và màu sắc khác biệt.
 

 Tranh minh họa lễ tế Nam Giao năm 1936.

    Tầng trên cùng là Viên đàn, xây hình tròn (tượng trưng cho Trời) gồm 5 án thờ: chính giữa thờ Trời (Hiệu Thiên Thượng Đế) và Đất (Hoàng địa kỳ), các án còn lại thờ Thái tổ Gia Dụ Hoàng đế, Thế tổ Cao Hoàng Đế, Thánh Tổ nhân Hoàng đế, Hiến Tổ chương Hoàng đế. Đàn cao 6 thước 8 tấc, chu vi 30 trượng 3 thước 5 tấc, bốn mặt có thềm: phía Nam 15 bậc, các hướng còn lại đều 9 bậc.
    Tầng giữa là Phương đàn hay còn gọi là Tùng đàn, xây hình vuông cao 2 thước 5 tấc, vuông 72 trượng, bốn mặt thềm đều 5 bậc. Tầng này có 8 án tòng tự (8 vị được dự thờ). Ở phía bên trái: Án thứ nhất thờ Mặt trời (Đại Minh), án thư nhì thờ vì sao, án thứ 3 thờ các thần Mây, thần Mưa, thần Gió và thần Sấm, án thứ tư thờ thần Thái Tuế và thần Nguyệt Tướng. Ở phía phải: án  thứ nhất thờ Mặt trăng (Dạ Minh), án nhì thờ thần Núi, thần Biển, thần Sông và thần Chằm, thần các núi Hiệu Trường, Khải Vận, Hưng Nghiệp và Thiên Thụ đều thờ ở án này; án thứ 3 thờ thần giữ lăng tẩm, mộ phần; án thứ 4  thờ các thần kỳ trong nước.
     Tầng dưới cùng xây hình vuông, cao 1 thước 9 tấc, vuông 130 trượng 7 thước, bốn mặt thềm đều 4 bậc.
     Ba tầng đàn, xung quanh đều xây lan can, tầng thứ nhất tô màu xanh, tầng thứ 2 tô màu vàng, tầng thứ 3 tô màu đỏ. Khoảng đất vuông ngoài đàn đều trồng cây thông, xung quanh xây tường đá, bốn mặt đều mở 3 cửa rộng. Phía Đông Bắc ngoài tường là Nhà kho, Nhà bếp, Kho Tế khí và Nhà Sát sinh; phía Tây Nam là Trai Cung, mở 2 cửa trước sau, xung quanh xây tường gạch, trồng nhiều cây thông.
     Từ khi Đàn tế được xây dựng xong cho đến cuối thế kỷ 19, hàng năm Triều Nguyễn đều tổ chức lễ tế Nam Giao vào mùa Xuân. Lễ tế Nam Giao lần đầu tiên được Vua Gia Long tổ chức vào ngày 27 tháng 3 năm 1807. Từ năm 1886 đến năm 1890, triều đình Huế không tổ chức lễ tế Giao. Bắt đầu từ năm 1891, cứ 3 năm Triều đình tổ chức lễ tế Nam Giao một lần. Lễ tế Giao cuối cùng của triều Nguyễn là vào ngày 23 tháng 3 năm 1945. Như vậy, đã có tất cả 98 buổi đại lễ Nam Giao được tổ chức dưới triều Nguyễn.
     Lế Tế Nam Giao được tổ chức có quy mô lớn và hết sức long trọng vào mỗi dịp đầu xuân. Sử sách còn ghi chép chi tiết về lễ Tế Giao ở các triều vua nhà Nguyễn.

 
Sơ đồ Nghi thức tế Nam Giao năm 1929.

   Sơ đồ Đàn tế Nam Giao.
     Sau Tết Nguyên Đán, Khâm Thiên Giám – cơ quan trông coi lịch pháp dưới Triều Nguyễn sẽ chọn ra một ngày tốt để dâng vua phê chuẩn. Sau đó, Triều đình sẽ tiến hành các công việc chuẩn bị cho lễ tế Nam Giao.
     Lễ Tế Giao năm Kỷ Hợi 1839 (năm Minh Mạng thứ 20) với sự tham gia của trên 4000 người (có năm lên tới 7,8 ngàn người): Trung đạo 1300 người, Tiền đạo 630 người, Hậu đạo 630 người, bày hàng ở đàn sở và Trai Cung 640 người, bày ở 2 đường tả hữu 300 người, ứng trực đàn sở 300 người, thủy sư trên các thuyền 300 người.
     Trong lễ tế Nam Giao, có thể đích thân nhà vua đứng làm chủ tế, hoặc giao cho quan Khâm mệnh Đại thần thay mặt làm chủ tế. Trong ngày tế, Vua đội mũ Cửu long, mặc áo bào vàng, đeo đai ngọc, xiêm vàng; các quan dự đều mặc triều phục; lễ tế có chuông, trống, nhã nhạc đều theo hiệu lệnh.
     Sách “Đại Nam chính biên đệ nhỉ kỷ” đã mô tả lễ tế Giao như sau: Trước một ngày, hữu ty chuẩn bị lỗ bộ đại giá. Đến giờ, vua ra cửa Hữu Túc, điện Càn Nguyên nổi chuông nổi trống. Kiệu đi đến cửa Hữu Đoan, phát 9 tiếng ống lệnh. Quan thủ thành, mặc phẩm phục quỳ đưa. Khi kiệu qua sông đến bờ Nam, chuông trống ngừng. Đến cửa Bắc của Đàn, quan bồi tế mặc phẩm phục quỳ đón. Ở Trai cung nổi chuông. Giá đến Trai cung thì chuông ngừng. Đến ngày tế, trước khi mặt trời mọc 7 khắc, Khâm Thiên giám báo giờ, ở Trai cung nổi chuông. Khi kiệu đến cửa Tây của Đàn, chuông ngừng. Vua lên Đàn làm lễ, Lễ xong về Trai cung. Các quan làm lễ khánh thành. Khi kiệu trở về, ở Trai cung nổi chuông, đến cửa Bắc của Đàn, các quan quỳ đưa. Chuông ngừng. Đến cửa Thể Nguyên, phát 9 tiếng ống lệnh, ở điện Càn Nguyên nổi chuông nổi trống. Đến cửa Tả Đoan, quan Thủ Thành quỳ đón. Đến Cửa Túc Môn, chuông trống ngừng.
    Lễ Tế Nam Giao là để hiện vai trò “Thiên tử” của nhà vua, để chính danh với thiên hạ và để gửi gắm những ước mơ, khát vọng của con người với thần linh về một thế giới thái bình, no ấm, con người sống hài hòa với tự nhiên. Đây là một nét văn hóa cung đình độc đáo và đặc sắc dưới triều Nguyễn, chứa dựng giá trị lịch sử văn hóa cùng giá trị nhân văn độc đáo.
     Với việc Đàn tế Nam Giao Triều Nguyễn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa Thế giới vào năm 1993, khu di tích đã được trùng tu, tôn tạo, đồng thời Lễ Tế Nam Giao đã được nghiên cứu và phục dựng trong các kỳ Festival Huế, trở thành lễ hội văn hóa độc đáo chỉ riêng có ở Cố Đô./.
Tham khảo:
1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, Mộc bản triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 28, quyển 31.
2. Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, Mộc bản triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 17, quyển 70,  quyển 199.
3. Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, Mộc bản triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, quyển 1.
4. Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, Phông Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, hồ sơ 5943.
5. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Đàn­_Nam_Giao (triều_Nguyễn).

Nguyễn Thị Việt - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Nghiên cứu về Chống hạn trong truyền thống của người Việt

Ông Nguyễn Văn Huyên có bài nghiên cứu về Chống hạn trong truyền thống của người Việt trong đó trình bày rất kỹ về truyền thuyết Tứ pháp, đặc biệt nữ thần mưa, Pháp Vân, tại chùa Dâu vào 1944. Lần đầu công bố bản tiếng Việt năm 2001.



Kết luận bài viết của mình, ông Huyên viết: “Một lần nữa, người ta có thể thấy cái thiên tài của nhân dân Việt Nam, bất chấp thời gian, bất chấp uy tín của một chính giáo nào đó, đã có thể, có lẽ chính là nhờ ngay cái tinh thần khoan dung của mình, nhờ những khái niệm tâm lý được sản sinh ngay trên mảnh đất nóng bỏng và sống động này, làm cho dân tộc này, với những nỗ lực trẻ hoá không ngừng, có được một tổng thể tôn giáo độc đáo và tích cực.”
Những bức ảnh ở chùa Dâu ngày tết này cho thấy “nỗ lực trẻ hoá không ngừng” ấy vẫn tiếp tục hôm nay và cái tôn giáo “tích cực” này vẫn vẫn được người dân vùng này thực hành.
Nguyễn Văn Huy